VÀ
Lê Văn
Ẩn
Bạn và tôi là người Việt, chúng ta là con dân
nước Việt. Cái tên "Việt" đã có từ lâu đời , ấy thế mà khi hỏi đến
nguồn gốc và ý nghĩa của nó, ít có ai hiểu nó là gì ! Tại sao là
Việt ? Nó mang ý nghĩa gì ? Thỉnh thoảng trên báo chí chúng ta thấy
có nhiều học giả tìm cách giải thích , nhưng rất tiếc sự giải thích
đó đều mang một ý nghĩa không mấy tốt đẹp . Hôm nay bạn và tôi thử
tìm hiểu, phân tích để hiểu xem vì lý do gì tiền nhân của chúng ta
lại lấy cái tên "Việt" đặt cho dân tộc mình .
Đầu tiên cái tên Việt đó được viết bằng một
loại chữ mà ngày nay ít ai nhắc tới, đó là chữ Nho. Chúng ta có
chữ viết ; các cụ ngày xưa viết chữ Nho, sau đó là chữ Nôm ; đến khi
người Pháp đến đô hộ đất nước chúng ta, họ đưa vào một lối chữ viết
với mẫu tự La-tinh và gọi đó là chữ Quốc Ngữ. Chữ Quốc Ngữ dần dần
thay thế chữ Nho và Nôm . Sau đó tất cả các sách vỡ , văn kiện đều
được in bằng chữ Quốc Ngữ .Ngày nay ít ai buồn nghĩ đến chữ Nho và
Nôm của ngày trước; nếu có ai tình cờ nhắc lại thì bị coi là cổ hủ ,
lỗi thời. Từ đó với thời gian hai loại chữ trên đều bị rơi vào quên
lãng. Sự mất mát của chữ Nho và chữ Nôm mang một ảnh hưởng rất tai
hại mà ít ai nghĩ tới.
Thông thường bạn và tôi không thấy sự tai hại
đó , mãi cho đến một ngày có người hỏi chúng ta , anh là người Việt
, vậy chữ "Việt" đó mang ý nghĩa gì? Cái gốc của chữ "Việt" đó từ
đâu mà ra ? Bây giờ bạn và tôi đem chữ Quốc ngữ ra cắt nghĩa cái
nguồn gốc chữ "Việt" ư ? Chữ Quốc ngữ không thể giải thích nguồn gốc
của chữ "Việt" ! Quay lại chữ Nho và chữ Nôm ư ? Còn mấy người biết
được chữ Nho và Nôm , và có chắc họ còn nhớ cái nguồn gốc của chữ đó
không !
Một hôm , ông Bùi Tuấn Dũng , một
người bạn thân của tôi , mang đến cho tôi một số bài báo giải thích
về nguồn gốc của chữ "Việt" . Tôi rất mừng và vội đăng lên đây để
bạn và tôi cùng tìm hiểu nguồn gốc dân tộc mình qua danh xưng là
Việt . Dưới đây là những đoạn trích từ các bài báo vừa kể :
1. Ông Phạm Cao Dương có viết bài
"Việt Nam hay Đại Nam" ( Một vấn đề liên hệ tới quốc hiệu nước ta )
đăng trong tờ Chiêu Dương . Ông viết như sau : "... Chữ Việt trong danh
xưng Việt Nam đã không được viết là Việt chỉ hai tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây mà là Việt có nghĩa là vượt, một chữ mà các bậc lão thành
cho là có nghĩa xấu vì nó hợp với chữ Tẩu có nghĩa là chạy và chữ
Tuất chỉ một chi trong 12 chi tượng trưng cho chó". Cuối cùng nếu
mê tín, dị đoan mà nói, một quốc gia mà mang tên những
vượt và chạy
do người ngoài đặt cho như vậy thì khó mà sống trong hòa bình, ổn
định và đoàn kết xây dựng được.
2. Ông Phan Hưng Nhơn có viết bài
"
Nhận thức về một số suy luận mới về sử liệu Việt Nam" đăng trong tờ
Viên Giác số 135 tháng 6 năm 2003 ( xuất bản ở Đức ). Ở trang 135
ông viết như sau : "... Đối với những bộ lạc sống vùng Nam man mà họ
không mấy biết và cho rằng những bộ lạc nầy có lối sống hỗn độn. Nên
người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là
Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man này mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài vòng
lễ giáo của nhà Chu". Như thế danh xưng Việt người thời nhà Chu
dùng đầu tiên và chỉ có nghĩa đơn giản như vậy. Sau đó ở trang 137
ông lại viết tiếp : "... Vì vậy từ thời thượng cổ cho đến cận đại,
dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này
không bao giờ chịu nhận
mình là người Việt và từ xưa cho đến nay luôn luôn tự xưng mình là
dân Nam, nước mình là nước Nam ( cho đến năm 1945 ).
3. Ông Hoàng Văn Chí có viết bài
"Nguồn gốc dân tộc" ( đây là bài Tham Luận ) đăng trong tờ Chiêu
Dương . Ông viết như sau : "... Chữ Việt có nghĩa là vượt qua , như
việt quyền là vượt quá quyền hạn, việt ngục là vượt ngục.
Người Hán
dùng chữ Việt để chỉ những sắc tộc ở phía Nam sông Dương Tử, mà họ
coi là thấp kém ví chẳng khác người Thượng hiện nay, họ không định
cư ở một nơi để canh tác nông nghiệp. Cứ ở mỗi nơi vài năm, phá rừng
làm rẫy, rồi hễ đất hết màu mỡ, lại vượt sông, vượt núi, di chuyển
tới một khu rừng khác .
Vì có nhiều sắc tộc Việt quá nên người Hán gọi
hằm-bà-lằng tất cả là Bách Việt. Sau đó ông lại viết tiếp như sau :
"... Rồi người Việt-nam được gọi tắt là Người Việt, làm cho nhiều
người ngộ nhận chúng ta là một trong các sắc tộc Bách Việt bên Tàu.
Đáng lẽ nên gọi là Người Nam . Chữ Nam đối chọi với chữ Bắc. Ta là
Nam, Tàu là Bắc.
4. Ông Trần Hữu Lễ có viết trong tờ
Viên Giác số 122 , tháng 4 năm 2001 ( xuất bản ở Đức ) dưới đề mục "một bọc trăm con". Ông có nhận xét như sau : ... Họ ( Cao Biền )
viết chữ Việt
gồm hai bộ Tuất và Tẩu . Tuất là chó. Tẩu là chạy , với nghĩa xách
mé, như một lời chửi rủa ... Có một chữ Việt
khác
gồm các bộ Phiệt ( gần giống âm Việt ), Quynh (miền đất ở xa ngoài
cõi ), Mễ ( lúa gạo ), Khảo ( khéo léo ). Rồi ông giải thích như
sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề trồng lúa một cách
tinh xảo . Phải chăng đấy là ý người xưa. Chữ Việt này nhìn giống
như một trái cây, có cuống , có quả , có nhiều hạt. Có quả có nhân,
có nhân có quả... Ngoài phần phân tích chữ Việt , bài viết "Một bọc
trăm con" của ông viết rất đầy đủ ý nghĩa.
5. Ông Huy Việt Trần Văn Hợi có viết
bài "Chữ Việt" đăng trong tờ Tư Tưởng như sau : "...
Nếu ta tách chữ
Việt bộ Tẩu ra thì ta có một bên là chữ Tẩu là chạy, và một bên chữ
Tuất là chó. Đó là họ muốn ghi chiến thắng của họ là đánh đuổi dân
ta chạy về Phương Nam như đuổi chó vậy".
Trong năm học giả ở trên thì có
ba người cho chữ "Việt" gồm bộ Tẩu và chữ Tuất ,rồi chú thích là
chó chạy ; còn hai người gọi Việt là vượt và cho đó là một cái tên
thấp kém , sống vượt ngoài vòng lễ giáo, rồi đề nghị đừng gọi là
người Việt mà nên gọi là người Nam !
Nếu bạn và tôi không biết chữ
Nho và chữ Nôm , thì chúng ta nên tin ai và bỏ ai đây ? Họ đúng hay
sai, thật khó mà biết được vì tất cả đều phân tích giống nhau ! Vậy
tổ tiên chúng ta không biết cái tên đó xấu hay sao mà lại chọn cái
tên như vậy ? Chúng tôi tin tưởng rằng tổ tiên của chúng ta phải có
lý do chính đáng để chọn cái tên "Việt", tuy nhiên đám con cháu
không chịu tìm hiểu cặn kẽ rõ ràng rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân !
Với khả năng hạn hẹp và thô
thiển , tôi cố gắng tìm lại nguồn gốc qua sự phân tích , dẫn chứng
về chữ Việt . Biển học thì mênh mông mà sự hiểu biết của mình thì
quá hạn hẹp , nếu tôi có gì sơ xuất hay sai sót thì xin các bậc cao
minh chỉ bảo để tôi có dịp học hỏi thêm.
Đầu tiên , chữ Việt được viết bằng chữ Nho. Chữ
đó viết bằng hai cách :
Việt
và Việt
Trước tiên để hiểu chữ Việt trên mang ý nghĩa
gì, chúng ta thử tìm qua tự điển.
1. TÌM CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN
Việt
đây là
chữ Việt đi với bộ Mễ
.
Muốn tìm chữ Việt này bạn lấy cuốn tự điển chữ Nho, hay cuốn tự điển
Hán-Việt hoặc tự điển của Trung Hoa , lật tới bộ Mễ ( là
bộ thứ 119 trong số 214 bộ ). Bộ Mễ theo cách viết gồm có sáu (6 )
nét hợp thành , hãy tra ở phần các bộ có sáu nét thì tìm ra bộ Mễ,
sau đó tìm trong bộ Mễ ở phần 6 nét thì thấy chữ Việt nầy . Vì nó
nằm ở bộ Mễ cho nên người ta nói chữ Việt bộ Mể là mang ý
nghĩa như vậy.
Việt
đây
là Chữ Việt bộ Tẩu
(
là bộ thứ 156 trong 214 bộ ), bạn cũng làm giống như trên , tìm đến
bộ Tẩu
(
bộ 7 nét ) , rồi tìm đến phần năm nét của bộ tẩu thì thấy chữ Việt
nầy .
Sau khi tra tự điển tìm ra chữ Việt rồi , nay
bạn và tôi thử tìm coi trong tự điển chữ Nho và tự điển Hán-Việt
người ta giải thích thế nào về chữ Việt đó . Ở đây chúng tôi lấy tự
điển Thiều Chửu để làm ví dụ .
2. GIẢI THÍCH CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN
A. Việt
,
chữ Việt bộ Tẩu
được giải
thích như sau ( Tự điển Thiều Chửu trang 655 ) :
1. Qua , vượt qua
2. Rơi đổ
3. Nước Việt, đất Việt
4. Giống Việt : ngày xưa các giống
Việt như Ư-Việt thì ở Triết Giang ; Mân-Việt thì ở Phúc Kiến ;
Dương-Việt thì ở Giang Tây; Nam-Việt thì ở Quảng Đông ; Lạc-Việt thì
ở nước ta, đều là Bách Việt cả.
5. Một âm là Hoạt : cái lỗ dưới đàn
sắt.
B. Việt
, chữ Việt
bộ Mễ được giải thích như sau ( tự điển Thiều Chửu trang
474 ) :
- Nước Việt, đất Việt, cùng
nghĩa như chữ Việt
. Tĩnh
Quảng Đông, Quảng Tây nguyên trước là đất của Bách Việt nên người
Tàu gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt .
- Bèn , tiếng mở đầu ( phát ngữ ), như Việt hữu
là bèn có.
Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho, có cố gắng
mà tìm hiểu nguồn gốc, thì cùng lắm chỉ tìm được lối giải thích như
trên . Trong tự điển chữ Nho , hay tự điển Hán-Việt hoặc tự điển
thông dụng của Trung Hoa , người ta chỉ giải thích như vậy , chứ
không có cuốn tự điển nào phân tích cái gốc của chữ Việt cả ! Vì
không có sự phân tích chữ gốc từ tự điển , cho nên mọi người phân
tích mỗi kiểu khác nhau, từ đó chúng ta không biết tin ai bỏ ai !
Bây giờ bạn và tôi thử phân tích coi chữ Việt
đó như thế nào.
3.PHẦN PHÂN TÍCH CHỮ VIỆT.
A. CHỮ VIỆT ĐI VỚI BỘ TẨU
Trong các bài báo đăng trích ở
trên thì phần lớn giải thích chữ "Việt" đi với bộ Tẩu và chữ Tuất ;
tuy nhiên có một vị cho rằng đi với bộ Tuất và bộ Tẩu, ông không gọi
chữ Tuất mà lại gọi là bộ Tuất . Để tránh hiểu lầm , chúng tôi xin
thưa rằng không có bộ Tuất mà chỉ có chữ Tuất
. Trong
214 bộ , không có bộ Tuất . Muốn tìm chữ Tuất , ta phải tìm bộ Qua
( là bộ thứ 62 của 214 bộ ) , chữ Tuất
là thuộc 2 nét của bộ Qua
(
tự điển Thiều Chửu trang 219 ). Ở đây có sự nhận định không rõ ràng
giữa chữ và bộ . Cuốn tự điển Khang Hi lập thành vào năm 1716
sau Tây Lịch , gồm có khoảng bốn chục ngàn chữ , nhưng chỉ có 214 bộ
.Vì số chữ quá nhiều , nên người xưa dùng bộ để xấp các chữ vào từng
loại cho có thứ tự và để dể tìm, ví dụ tôi muốn viết chữ đó có liên
quan với nước, thì tôi viết nó đi kèm với bộ Thủy
; tôi
muốn viết chữ đó liên quan đến cây thì tôi viết kèm với bô Mộc
, hay nói một
cách khác là nếu tôi muốn tìm một chữ trong tự điển chữ Nho hay tự
điển Hán-Việt thì việc trước tiên là phải biết chữ đó nằm ở bộ nào.
Ở phần sau trong phần cấu tạo chữ Nho, chúng tôi sẽ giải thích vai
trò của chữ và bộ khi họp lại với nhau.
Các học giả ở trên nói rằng Chữ Việt gồm bộ Tẩu
và chữ Tuất. Bạn và tôi thữ tìm hiểu chữ Tuất coi nó ra sao .
Chữ Tuất
, ( xin
xem tự điển Thiều Chửu trang 219 ) ,nếu chúng ta nhìn kỹ chữ Tuất
chúng ta thấy bên trái có cái gạch ngang .
Vậy ngày xưa người ta viết chữ
Tuất như thế nào và giải thích ra sao ? Chữ Tuất ngày xưa viết là
có nghĩa
là một cái qua
có một
nét khuyết xuống và một đường gạch ngang
bên
trái ; đường gạch ngang
tượng trưng cho vết chém , hay vết thương mà người chiến sĩ gây cho
kẻ thù của mình , từ đó nghĩa xưa của chữ Tuất là tấn công, gây
thương tích , sát hại. Tôi xin nhắc lại cái qua là một loại binh khí
ngày xưa . Sau nầy người ta mới đặt chữ Tuất là chi Tuất, là một
chi trong mười hai chi. Như vậy chữ Tuất với ý nghĩa ban đầu không
dính dấp gì với chó cả !
Bây giờ xin bạn hãy coi lại cách
viết của chữ Việt đi với bộ Tẩu
Việt
Chữ Việt bao gồm bộ Tẩu
và chữ
Bây giờ bạn hãy nhìn chữ Tuất
Tuất
Bạn hãy coi chữ Tuất
và chữ
có giống
nhau không ?
Chắc chắn là không giống nhau
rồi. Chữ Tuất
có một
nét gạch ngang bên trái, còn chữ
có một
nét móc lên ở bên trái . Bạn sẽ hỏi tôi chữ
đọc làm
sao ? Chữ nầy đọc là Việt . Các học giả ở trên nhìn lộn
chữ Tuất
với chữ Việt
! Cái chữ
trong chữ Việt
bộ tẩu
không phải là chữ Tuất mà là chữ Việt !
Vậy bạn sẽ hỏi rằng chữ
Việt nầy
ngày xưa chữ gốc của nó như thế nào và giải thích làm sao ?
Chữ Việt
., ngày xưa viết là
và được
giải thích như sau : Hình một cái qua
có cái móc
ở
phía sau.
Như vậy trong chữ Việt
có bộ Tẩu
đi với chữ Việt chứ không phải bộ Tẩu đi với chữ Tuất !
Bây giờ bạn và tôi lại thắc mắc là tại sao đọc
là Việt ? Trước khi bàn đến cách đọc , tôi xin nói phớt qua về cách
cấu tạo của chữ Nho .
CÁCH CẤU TẠO CHỮ NHO
Chữ Nho được chia ra làm hai
đại loại :
- Loại Văn
là
những hình thể đơn giản.
- Loại Tự là
những chữ hợp lại hay còn gọi là hợp tự.
Các cụ nhà Nho chúng ta thường
hay gọi là Văn Tự.
Loại Văn được
chia làm hai loại :
- Tượng hình
- Chỉ sự
Loại Tự cũng
được chia làm hai loại :
- Hội ý
-
Hình thanh
Ngoài
bốn loại
: Tượng hình,
chỉ sự,
hội ý
và hình
thanh, thuộc về
Văn Tự,
chúng ta còn
có thêm
hai loại nữa
, đó là
:
- Giả
tá
- Chuyển
chú
Tóm
lại :
- Văn
Tự gồm
4 loại : Tượng
hình, chỉ
sự,hội
ý và
hình thanh
- Lục
thư gồm
6 loại: Tương
hình , chỉ
sụ, hội
ý, hình
thanh, giả tá
và chuyển
Chú.
A. GIẢI
THÍCH TỪNG
LOẠI
1a. TƯỢNG
HÌNH
Ðây
là những
hình vẽ
thô sơ
để chỉ
một vật
gì hay một
giống loại
gì.
Ví
dụ :
Ngày
xưa vẽ
Ngày nay viết
môn
:cái cửa
à
Thủy
: nước
à
Nhật
: mặt trời
à
2a. CHỈ
SỰ
Ðây
là những
hình thể
để nói
lên một
ý nghĩa
nào đó.
Tuy còn là
hình vẽ
những chữ
đã bất
đầu mang một
ý nghĩa
trừu tượng.
Ví
dụ :
Ngày
xưa vẽ
Ngày nay viết
thượng
: ở trên à
3a. HỘI
Ý
Mỗi
chữ đều
mang ý nghĩa
của nó.
Hội ý
là do hai chữ
hoặc nhiều
chữ hợp
lại để
ra một ý
nghĩa khác.
Ví
dụ : Chữ
Chiêm . Chữ
nầy gồm
hai bộ hợp
lại thành
một chữ.
Ở trên
là bộ
Bốcvà
ở dưới
là bộ
Khẩu
. Bốc
có nghĩa
là bói,
và Khẩu
là cái
miệng, hai bộ
nầy nhập
lại thành
chữ Chiêm
có nghĩa
là xem coi điều
gì để
biết xấu
tốt.
4a. HÌNH
THANH
Chữ
Hình Thanh là
do sự họp
lại của
một hoặc
nhiều chữ
.
Chữ
Hình Thanh gồm
hai phần :
- Một
phần là
bộ để
chỉ ý
(nghĩa của
chữ )
- Một
phần là
âm để
nói lên
cách đọc
của chữ.
Ví
dụ :
+ =
Bộ
âm
Chỉ
ý Chỉ
âm Thảo
( cách đọc
của
chữ
lấy từ
âm tảo
mà ra)
Bộ
thảo chữ
tảo
5a. CHUYỂN
CHÚ
Là
một loại
chữ được
dùng rộng
hơn ý
nghĩa ban đầu
của nó.
Chữ đó
mang nghĩa chính,
ngoài ra nó
đẻ thêm
một nghĩa
phụ nữa.
Ví
dụ : nhạc
à là một
nhạc khí
để tạo
ra sự vui tươi
nhạc
à chuyển âm
đọc là
Lạc
là
vui,thích
à
chuyển thêm
một âm
nữa đọc
là nhạo
là
yêu, thích.
( xin coi
tự điển
Thiều Chửu
trang 310 )
6a. GIẢ
TÁ
Ðây
là một
sự vay mượn
do lầm lẫn
hoặc thiếu
sót mà
ra, bất nguồn
từ :
- Do sự
chép sai lấy
từ chữ
gốc
- Mượn
chữ trùng
âm hoặc
chữ đồng
âm để
thay thế phần
chữ không
có trong chữ
viết, mà
chỉ có
trong lời nói
mà thôi.
Ví
dụ :
đậu
là một
cái thố
để đựng
thịt cúng
thần, cùng
âm với
chữ hạt
Ðậu
, nên cũng
được dùng
để chỉ
hạt đậu.
D. CHỮ
VIỆT
THUỘC LOẠI
NÀO ?
Trong 6 loại
của cách
cấu tạo
chữ Nho kể
trên , thì
chữ Việt
nằm trong loại
Hình Thanh tức
là một
bên chỉ
ý và
một bên
chỉ âm.
Ðể dẫn
chứng bạn
lấy quyển
CHỮ NHO TỰ
HỌC của
Ðào Mộng
Nam , Giảng Sư
Viện Ðại
Học Huế
, ở trang 110 có
viết như
sau : cách cấu
tạo chữ
Nho, phần 3 : Chỉ
âm - Chỉ
ý : Lấy
hai chữ vẽ
hình hay gom ý
có sẵn
ghép lại
rồi dùng
một chữ
để chỉ
âm, một
chữ để
chỉ ý
:
Ví
dụ :
cửu
: chỉ âm
ửu - ừu,
người:
chỉ ý.
Con người khác
con vật ở
điểm
biết thù
hằn nhau .
đọc
là cừu
( lấy từ
âm ửu
của chữ
cửu ) có
nghĩa là
thù hằn
Bây
giờ áp
dụng chữ
“Việt
“
vào :
Các
học giả
ở các
bài báo
ở trên
cho rằng chữ
Việt
gồm
bộ Tẩu
đi
với chữ
Tuất ;
chúng tôi
cho rằng bộ
Tẩu đi
với chữ
Việt .
Bây giờ
chúng ta hãy
xem cách đọc
:
Chữ
Việt gồm
bộ Tẩu
và chữ
Tuất
Việt
Tuất
: chỉ âm
: âm ở
đây là
T, âm tờ,
tẩu : chỉ
ý
Trong tự
điển
không có
bộ Tẩu
đi với
chữ Tuất
, nên không
đọc được!
Chữ
Việt gồm
bộ Tẩu
và chữ
Việt
Việt
Việt
: chỉ âm
tẩu
: chỉ ý
đọc là
Việt
Bạn
thử so sánh
coi , nếu lấy
âm T, Tờ
của chữ
Tuất thì
làm sao mà
đọc ra Việt
được ! Nó
phải âm
Việt thì
mới đọc
ra Việt được
. Ðể rõ
ràng hơn
tôi xin đưa
ra hai ví dụ
trong đó có
chữ Tuất
đi với
một bộ
khác và
chữ Việt
đi với
một bộ
khác như
sau :
1
. Chữ
Tuất
: chỉ âm
: âm ở
đây là
T, âm tờ
bộ
bối : chỉ
ý
Vậy
thì đọc
như thế
nào ? Thưa
đọc là
Tặc
(
xin xem tự điển
Thiều Chửu
trang 648 ).
2. Chữ
Việt:chỉ
âm
bộ
Kim : chỉ ý
Vậy
thì đọc
làm sao? Thưa
đọc là
Việt
(
xin xem tự điển
Thiều Chửu
trang 711 ) có nghĩa
là cái
búa lớn
mà ta thường
gọi là
Phủ Việt.
Vậy
có hai điểm
chính ở
đây . Các
học giả
ở trên
đã chẳng
những nhìn
lộn chữ
Việt ra chữ
Tuất , và
cũng chẳng
soát lại
coi cái âm
đọc như
thế nào
để coi mình
nói đúng
hay sai . Ðể rõ
ràng dể
hiểu hơn
chúng ta hãy
coi cách cấu
tạo chữ
mới như
thế nào
trong chữ Nho.
A. CÁCH
CẤU TẠO
CHỮ MỚI
TRONG CHỮ NHO
Ở
đây tôi
xin đượcnói
phớt qua một
chút để
thấy ngày
xưa người
ta làm thế
nào để
cấu tạo
một chữ
mới trong chữ
Nho, tuy nhiên những
điều
viết sau đây
không phải
là một
điều
cố định
vì nó
còn có
những trường
hợp ngoại
lệ. Ðể
dể hiểu
tôi xin lấy
chữ Nghệ
làm ví
dụ :
nghệ
à
hung
à
hung
à hung
Ví
dụ người
xưa bắt
đầu bằng
chữ Nghệ
(
tự điển
Thiều Chửu
trang 7 ). Bây giờ
muốn tạo
một chữ
mới lấy
gốc từ
chữ Nghệ
này thì
họ làm
sao ? Họ lấy
chữ Nghệ
nầy viết
kèm với
một bộ
khác ,ví
dụ bộ
Khảm thì
ra chữ Hung (
tự điển
Thiều Chửu
tr.48 ). Từ chữ
Hung nầy muốn
tạo thêm
một chữ
mới khác
thì họ
làm sao ? Họ
lại viết
kèm nó
với một
bộ khác
, ví dụ
bộ bộ
Bao thì
nó ra chữ
Hung .
Rồi họ
lại cứ
tiếp tục
lấy chữ
Hung có bộ
bao đó viết
kèm với
một bộ
mới, ví
dụ bộ
Tâm thì
ra chữ Hung (
xem tự điển
Thiều Chửu
tr. 204 ). Rồi cứ
như thế
mà tạo
ra một chữ
mới
Ðối
với chữ
Việt cũng
thế ; đầu
tiên nó
là chữ
Việt
,
xong để tạo
ra một chữ
mới người
ta mới nhập
nó với
bộ Tẩu
và
đọc với
âm Việt.
D. BỘ
TẨU
Mặc
dầu đã
giải thích
chữ Tuất
và chữ
Việt
rồi
, nhưng bạn
vẫn còn
thắc mắc
rằng nếu
chữ Việt
này
đủ để
đọc là
Việt thì
thêm bộ
Tẩu vào
làm gì
?
Tôi
xin nhắc lại
trong chữ “
Việt “
gồm
bộ Tẩu
và
chữ Việt
.
Chữ Việt
đây
chỉ là
cái âm
có nghĩa
là cách
đọc, cách
phát cái
âm ra như
thế nào
mà thôi.
Còn tất
cả ý
nghĩa gói
ghém lại
nằm ở
bộ Tẩu
là cái
phần chỉ
ý và
đó là
phần chính.
Vậy tổ
tiên chúng
ta muốn nói
cái gì
khi viết bộ
Tẩu vào
với âm
Việt . Ðó
là đều
mà bạn
và tôi
phải tìm
hiểu đến.
Ở
trên tôi
có giải
thích chữ
Việt ,
chữ xưa
viết là
là
hình một
cái qua có
cái móc
phía
sau ; mà cái
qua là một
loại binh khí
ngày xưa
vậy nó
phải có
liên quan gì
với bộ
Tẩu .
Bộ
Tẩu
:
. Ðầu tiên
chúng ta thử
tìm xem trong các
tự điển
cắc nghĩa
thế nào
về bộ
tẩu nầy.
-Tự
điển
Hán-Việt
của Thiều
Chửu : Tẩu
:1. Chạy. 2. Trốn
.
-Tự
điển
Hán-Việt
Từ Nguyên
của Bửu
Kế : Tẩu
: bộ Tẩu¨«
bảy nét
: chạy.
- Tự
điển
Ðại Nam Quốc
Âm Tự
Vị của
Huỳnh Tịnh
Của : Tẩu
: chạy .
- Tự
điển
chữ Nôm
của Vũ
văn Kính
: Tẩu : tẩu
thoát, bôn
tẩu .
- Hán-Việt
từ điển
của Nguyễn
Văn Khôn
: Tẩu : chạy,
trốn, đi,
về .
- Tự
điển
Trung Hoa : A New Practical Chinese -English dictionary do Công
Ty Viễn Ðông
xuất bản
:
zoêu
: 1. to walk có nghĩa
là đi
;to go on foot tức là
đi bộ.
2. to run từc là
chạy.
-
Tự
điển
Trung Hoa : A Chinese-English dictionary do Viện
Ngoại Ngữ
của Bắc
Kinh xuất bản
: zoêu
: 1. walk, go có nghĩa
là đi.
2. run có nghĩa
là chạy
Các
tự điển
Việt , phần
lớn đều
dịch là
chạy , chỉ
có ông
Nguyễn văn
Khôn dịch
là đi,
chạy. Tự
điển
Trung Hoa thì nghĩa
thứ nhất
là đi
, và nghĩa
thứ nhì
là chạy
. Các tự
điển
Việt và
Trung Hoa không có
cắt nghĩa
chữ gốc
của bộ
tẩu .Vậy
Tẩu
,
chữ gốc
của nó
viết như
thế nào
và giải
thích làm
sao?
Chữ
đầu tiên
vẽ một
người quơ
hai cánh tay của
họ , với
bộ túc
(nghĩa là
chân ) ở
dưới, từ
đó mang ý
nghĩa là
đi. Nhưng
sau đó chữ
thành hình
một người
đi hơi
nghiêng về
phía trước
, có ý
nói lên
một ý
chí cương
quyết và
bước đi
có vẽ
nhanh nhẹn , đây
là bước
quân đi
hay còn gọi
là bước
quân hành
, chứ không
phải là
lối đi
bình thường.
Vậy bộ
Tẩu và
kế bên
có cái
qua là binh khí
có nghĩa
là người
đó chẳng
những đi
và mà
còn cầm
vũ khí
. Ðó là
hình ảnh
người chiến
sĩ bước
đi tay cầm
cái qua . Một
người đi
bình thường
thì không
có cầm
binh khí. Chữ
Việt là
cái qua mà
đi với
bộ Tẩu
có ý
nói là
người chiến
sĩ cầm
vũ khí
, đi từng
đoàn
và đi
với một
ý chí
cương quyết
để ra trận.
Ðây là
thời gian mà
các nước
Việt phía
Nam tiến lên
đánh chiếm
phía Bắc
. Cái ý
nghĩa sâu
xa của chữ
Tẩu là
như vậy.
Nếu chúng
ta chỉ lấy
chữ Việt
chỉ
là binh khí
mà thôi,
thì tự
nó không
đủ để
giải thích
cái gì
cả !
Chữ
Tẩu mang ý
nghĩa chạy
là do sau nầy
người ta đưa
vào chứ
chứ gốc
không có
nghĩa là
chạy .
Tóm
lại , Chữ
“Việt
“ có
bộ Tẩu
và chữ
kế bên
đọc là
Việt có
nghĩa là
người chiến
sĩ cầm
vũ khí
là cái
qua, đi trong cương
quyết, đi
từng đoàn
theo thế quân
hành để
ra trận . Vậy
chữ Việt
không dính
dấp gì
với chó
chạy cả
!
E .CHỮ
VIỆT ÐI
VỚI BỘ
MỄ
Trong số
năm học
giả trên
, có người
giải thích
chữ Việt
đi
với bộ
Mễ
là
một bản
đồ đất
đai của
người Việt
ở từ
khi mới lập
quốc.
Người
khác thì
lại phân
tích rằng
chữ Việt
gồm
các bộ
Phiệt ( gần
giống âm
Việt ), Quynh ( miền
đất ở
xa ngoài cõi
), Mễ ( lúa
gạo ), Khảo
( khéo léo
). Rồi ông
giải thích
như sau: một
miền đất
ở xa ngoài
nước Tàu
chuyên nghề
trồng lúa
một cách
tinh xảo ; Chữ
Việt này
nhìn giống
như một
trái cây,
có cuống
, có quả
, có nhiều
hạt.
Mỗi
người giải
thích theo mỗi
ý . Bạn
và tôi
thữ tìm
xem coi chữ Việt
bộ Mễ
này có
nghĩa gì
.
Ðầu
tiên chữ
Việt gồm
có bộ
Mễ . Vậy
bộ Mễ
ngày
xưa chữ
gốc của
nó là
gì ?
Hình 1
Hình 2
Chữ
từ xưa
đến nay
Ðầu
tiên người
xưa vẽ
chín hạt
gạo tượng
trưng cho bộ
Mễ
.
Con số chín
đây có
nghĩa là
nhiều , sung túc,
đầy đủ.
Xem hình 1, cây
lúa có
rất nhiều
hạt .Sau đó
hạt lúa
văng đi
bốn hướng;
họ gạch
chứ thập
tượng
trưng cho bốn
hướng. Hình
2 , khi người ta đập
lúa thì
hạt lúa
văng đi
tứ ( bốn
) hướng. Bỗ
Mễ ngày
nay viết đổi
khác hơn
chữ lúc
ban đầu.
Chúng
ta đã có
lúa gạo
tức là
bộ Mễ,
vậy thì
cái chữ
mà bọc
bộ Mễ
là chữ
gì ? Ðể
dễ nhận
thức tôi
xin đưa ra một
ví dụ
: chữ Hướng
, chữ
bộc bộ
khẩu cũng
viết giống
như chữ
bọc bộ
Mễ . Chữ
Hướng ,
đầu tiên
viết là
, người
xưa giải
thích là
cái cửa
sổ ( hình
tròn ) , nằm
dưới cái
mái nhà
, là
cái hướng
để cho gió
lọt vào
. Bây giờ
chúng ta nhìn
lại chữ
Việt ,
cái chữ
bọc bộ
Mễ đó
là cái
mái nhà,
có nghĩa
là gạo
được trữ
dưới mái
nhà hay còn
gọi là
trữ trong kho.
Kế
tiếp chữ
ở dưới
bộ
Mễ là
cái gì
? Bạn hãy
coi hình ở
dưới .
Người
xưa lấy
một khúc
cây , ráp
một cái
lưỡi bằng
đá vào
để làm
cái cày
để cày
đất . Rồi
người ta đứng
lên trên
cái cày
đó để
làm sức
nặng và
đàng trước
có súc
vật kéo
. Bạn và
tôi nên
nhớ là
người Việt
ngày xưa
nổi tiếng
về nghề
trồng lúa
.Vậy chúng
ta thấy có
sự liên
hệ giữa
ba chữ với
nhau trong chữ Việt
;
bộ Mễ
là lúa,
gạo , được
trữ dưới
mái nhà
tức là
trữ trong kho, và
để tạo
ra lúa gạo
thì cái
cày là
một dụng
cụ nông
nghiệp.
F. Ý
NGHĨA CỦA
HAI CHỮ VIỆT:
Việt và
Việt
Tại
sao tiền nhân
của chúng
ta lại dùng
tới hai chữ
Việt để
đặt cái
tên Việt
? Thông thường
người ta chỉ
cần một
chữ là
đủ rồi
. Chúng ta thấy
trong hai chữ , mỗi
chữ Việt
đều mang một
ý nghĩa
khác nhau .
ChữViệt
đi
với bộ
Mễ thì
có mang một
dụng cụ
nông nghiệp
là cái
cày để
nói lên
trong thời bình
người Việt
trồng lúa
để sinh sống
.
Còn
một chữ
Việt
có
kèm theo một
vũ khí
tức là
cái qua đi
với bộ
Tẩu có
ý nói
là trong thời
chiến người
Việt, từng
đoàn
cầm vũ
khí ra đi
để chống
giặc và
giữ nước.
Vậy Tổ
tiên chúng
ta muốn dạy
điều
gì cho chúng
ta ở đây
trong danh xưng là
Việt ?
Với
chữ Việt
đi
với bộ
Mễ, tổ
tiên chúng
ta muốn nói
rằng vào
thời bình
người Việt
chúng ta phải
lo làm lụng
nuôi sống
gia đình, lo cho đất
nước giàu
mạnh ; ngày
xưa đất
nước của
chúng ta là
một nước
nông nghiệp
nên nghề
nông là
nghề chánh
. Ngoài ra chữ
Việt nầy
đồng thời
cũng nói
lên đức
tính siêng
năng cần
cù của
người dân
Việt.
Với
chữ Việt
đi
với bộ
Tẩu có
nghĩa là
khi gặp thời
chiến thì
phải cùng
ra đi, cầm
vũ khí
đứng ra chống
giặc để
giữ nước.
Tổ tiên
của chúng
ta khi đặt một
cái tên
gì, hay để
lại một
câu chuyện
gì, đều
có kèm
theo một ý
nghĩa rất
sâu sắc
trong đó. Như
vậy tổ
tiên của
chúng ta có
ý dạy
cho dân ta phải
biết trách
nhiệm và
bổn phận
của mình
đối với
đất nước
và dân
tộc : thời
bình thì
phải làm
gì, và
thời chiến
thì phải
như thế
nào đối
với đất
nước .
Cái
lỗi ở
đây là
tại chúng
ta không tìm
hiểu cho rõ
ràng và
cặn kẽ
cái ý
nghĩa của
tên “
Việt “
, rồi quay lại
hiểu lầm
tiền nhân
.Bây giờ
bạn và
tôi mới
nhận thấy
cái ý
nghĩa sâu
sắc của
tiền nhân
khi đặt cái
tên Việt
cho dân tộc
mình.
Tuy rằng
đã hiểu
ý nghĩa
của chữ
“Việt
“, nhưng
bạn và
tôi vẫn
còn thắc
mắc. Bạn
sẽ nói
rằng anh nói
tiền nhân
lấy cái
qua đặt vào
với tên
“Việt“,nhưng
làm sao dám
chắc rằng
cái qua đó
là của
người Việt
? Cái khí
cụ đó
có chắc
là của
người Việt
hay không hay là
lấy từ
một chổ
nào khác
đem lại
? Mà nếu
nó là
của người
Việt thì
nó ra sao ? Hình
dáng như
thế nào
?
TIẾP
THEO
|